Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung được xây dựng tại trung tâm Phố Hiến Hạ thuộc phường Hồng Châu.
Đông Đô Quảng Hội là nơi hội họp của các thương nhân nước ngoài, chủ yếu là người Hoa sang buôn bán tại Phố Hiến thế kỷ XVI - XVII, đồng thời đây cũng là nơi thờ Tam Thánh gồm: Thần Thái y có công cứu nhân độ thế và dạy dân trồng các dược liệu quý làm thuốc chữa bệnh; Thần Hoa Quang dạy dân làm các nghề thủ công; Thần Nông dạy dân làm ruộng, trồng trọt, chăn nuôi.
Phía bên trái Đông Đô Quảng Hội còn có đền Thiên Hậu Cung thờ bà Lâm Tức Mặc. Bà sinh ngày 23 tháng 03 âm lịch, là con gái thứ 6 của Lâm Nguyện, thuộc dòng dõi Cửu Mạc, người làng Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bà rất thông minh, 8 tuổi học đạo giáo trời tiên, 16 tuổi luyện đơn thành cửu chuyên, có thể hô mưa gọi gió và cưỡi chiếu trên biển. Bà có công lao to lớn trong việc cứu dân, cứu nước thoát khỏi nguy hiểm nên người Trung Hoa rất tôn sùng bà. Bà mất ngày mồng 09 tháng 09 âm lịch. Sau khi hoá, bà thường hiển linh giúp đỡ các đoàn thương thuyền được xuôi chèo mát mái. Bà được suy tôn làm thần hàng hải của người dân Phúc Kiến. Thời Tống bà được phong làm Thiên Phi, thời Minh phong là Thiên Hậu, gia phong mỹ tự “Thiên thượng Thánh Mẫu vô cực nguyên quân”. Theo tục truyền của người Trung Hoa, cứ ở đâu có người Hoa, ở đó có Đông Đô Quảng Hội, có Tam Thánh và Thánh Mẫu Thượng thiên.
Đông Đô Quảng Hội được xây dựng năm 1590 trên một khu đất đẹp với bố cục kiến trúc hình chữ Nhị. Toàn bộ đồ tế tự và nguyên vật liệu được vận chuyển từ 3 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến sang bằng đường biển do 14 dòng họ người Trung Hoa và dân Phố Hiến xây dựng nên. Trải qua thời gian di tích đã được nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhưng vẫn mang dấu ấn kiến trúc Trung Hoa đan xen kiến trúc Việt. Hiện nay, di tích gồm các hạng mục: Nghi môn, Tiền tế và Hậu cung. Công trình đầu tiên là Nghi môn, được lợp bằng ngói vẩy cá, kiến trúc vì kèo kiểu giá chiêng, kê trên các đấu kê hình đài lá và hình vành khuyên. Khu thờ tự chính được phục dựng lại trên nền móng của công trình cũ, kết cấu kiến trúc các bộ vì của 2 tòa này làm kiểu chồng rường giá chiêng, hoa văn chạm trổ theo phong cách Trung Hoa cổ. Hậu cung gồm 03 gian, kết cấu các bộ vì kèo kiểu chồng rường, giá chiêng, con nhị, nâng đỡ vì là hệ thống cột cái được kê trên các chân tảng đá thắt cổ bồng. Hệ thống cửa Hậu cung trạm trổ tùng, điểu, hươu, nai,... đố cửa trạm nổi phượng vũ, mã phi, bên trên chạm lộng phúc, lộc, chim, thú,... thể hiện ước vọng cầu lộc, cầu phúc của nhân dân.
Thiên Hậu Cung có kiến trúc hình chữ Nhị gồm 03 gian Tiền tế và 03 gian Hậu cung. Tòa Tiền tế được sử dụng làm nơi hội họp, buôn bán trong thời kỳ phồn thịnh của Phố Hiến. Năm 1975, tòa nhà này đã được các dòng họ Hoàng, Tiết, Ôn và nhân dân địa phương tiến hành trùng tu, phục dựng theo phong cách kiến trúc cổ Trung Quốc. Hậu cung gồm 03 gian, bộ vì kết cấu kiểu chồng rường, giá chiêng con nhị, hệ thống cột được kê trên các chân tảng đá lớn. Hai bộ vì hồi được đặt trên lưng 4 con lân gỗ trong tư thế nhìn ra ngoài. Các mảng chạm khắc, trang trí mỹ thuật ở hạng mục này mang đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa. Tại Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung còn lưu giữ được nhiều hiện vật rất có giá trị, tiêu biểu như: Bát hương đá thời Nguyễn, 04 tấm bia đá, 01 nậm rượu thời Lê, 01 bát hương sứ thời Càn Long.
Hằng năm, lễ hội tại đây được tổ chức vào các ngày 23 tháng 3 (ngày sinh), ngày mồng 09 tháng 09 (ngày hoá) âm lịch và ngày mồng 10 tháng 10 (ngày lễ đản của Tam thánh đế) âm lịch để ghi nhớ tới công lao của các vị Thánh.
Đông Đô Quảng Hội và Thiên Hậu Cung được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp Quốc gia vào ngày 02/12/1992 tại Quyết định số 3959-VH/QĐ.