Đền Kim Đằng nằm ở trung tâm thôn Kim Đằng, phường Lam Sơn. Xưa kia, nơi đây là trang Đằng Man, tổng An Tảo, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam thượng. Tương truyền, đền được xây dựng trên mảnh đất Đinh Điền chọn làm đại bản doanh với thế “Thanh Long, Bạch Hổ chầu về”.
Đền thờ Đinh Điền và phu nhân là Phan Thị Môi Nương. Tướng quân Đinh Điền quê ở Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình, vốn là con nuôi của Đinh Công Trứ (cha của Đinh Bộ Lĩnh). Từ thuở nhỏ, ông đã làm bạn “cờ lau tập trận” của Đinh Bộ Lĩnh, lớn lên đã cùng Nguyễn Bặc, Lu Cơ, Trịnh Tú và Đinh Bộ Lĩnh kết nghĩa anh em. Khi đất nước xảy ra loạn 12 sứ quân, mấy anh em bằng hữu đã theo sứ quân Trần Lãm chiếm giữ vùng Bố Hải (nay thuộc Tiền Hải - Thái Bình). Khi đã trở thành Vạn Thắng Vương, Đinh Bộ Lĩnh giao cho Đinh Điền chỉ huy 10 đạo quân đi thu phục các sứ quân khác. Khi đến trang Đằng Man, thấy địa thế đẹp, ông liền cho dựng đại bản doanh và chọn 3 người họ Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở trang Đằng Man làm gia tướng.
Dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư - Ninh Bình. Đến năm Kỷ Mão (979), Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị kẻ phản tặc Đỗ Thích giết hại, Đinh Điền cùng các quan đại thần tôn Đinh Toàn (khi đó mới 6 tuổi) lên ngôi vua, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái Hậu. Khi quân Tống lăm le xâm lược biên giới phía Bắc, đất nước đứng trước họa ngoại xâm, quân sĩ tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua, thay cho Đinh Toàn khi đó còn quá nhỏ. Không chấp nhận việc đó, quan Ngoại giáp Đinh Điền và Định quốc công Nguyễn Bặc đang trấn giữ Châu Ái cùng Phạm Hạp dấy binh, đưa quân từ Thanh Hóa ra đánh Hoa Lư nhưng không thành, Đinh Điền lui quân về trại Đằng Man. Ngày 17 tháng 11 năm Kỷ Mão (979), Đinh Điền và phu nhân mất, nhân dân trại Đằng Man đã lập đền thờ trên nền doanh trại xưa, ba gia tướng của Đinh Diền cũng được phối thờ tại đây.
Đền Kim Đằng được khởi dựng từ sớm, qua thời gian đã bị hư hại và đã được nhiều lần trùng tu. Hiện nay, đền có kiến trúc chữ Đinh gồm 05 gian Tiền tế và 03 gian Hậu cung. Toà Tiền tế được làm cách điệu kiểu chồng diêm hai tầng, tám mái. Các bộ vì toà Hậu cung được cấu tạo kiểu con chồng đấu sen, trang trí đơn giản. Gian trung tâm Hậu cung đặt tượng tướng quân Đinh Điền và phu nhân Phan Thị Môi Nương, được tạo tác trong tư thế ngồi tọa thiền,...
Hiện nay, tại đền còn lưu giữ các hiện vật tiêu biểu như: ngai thờ, tượng thờ, chuông đồng thời Minh Mệnh, 11 đạo sắc phong từ thời Lê đến thời Nguyễn và một số bức hoành phi, câu đối ca ngợi công đức của thần.
Hằng năm, lễ hội đền Kim Đằng được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 11 âm lịch để tưởng nhớ tới ngày mất của tướng quân Đinh Điền và phu nhân. Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài tổ chức rước kiệu còn có các trò chơi dân gian truyền thống như: chọi gà, múa lân, hát nói, hát trống quân, múa rối nước,... để góp phần dựng xây tình đoàn kết xóm thôn, giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.
Đền Kim Đằng được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 3951-QĐ/ BVHTT ngày 20/12/1997 xếp hạng là di tích “Lịch sử” cấp Quốc gia.