Đền Mẫu (Hoa Dương Linh từ) nằm bên hồ Bán Nguyệt thơ mộng, phong cảnh hữu tình thuộc phường Quang Trung, thành phố Hưng Yên. Đây là di tích tiêu biểu trong Khu di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến với mặt tiền hướng Tây Nam, xa xa là sông Hồng, bến Đá - nơi những đoàn thuyền trong và ngoài nước cập bến buôn bán ở Phố Hiến xưa.
Đền thờ bà Dương Quý Phi đời nhà Tống (Trung Quốc), được người đời tán xưng là “Mẫu nghi thiên hạ”. Theo thần phả tại đền, vào thế kỷ XIII đế quốc Nguyên - Mông tiến hành xâm lược nhiều nước châu Âu, châu Á. Trước sức mạnh của quân giặc, triều đình nhà Tống không tránh khỏi thất bại. Trong lúc lâm nguy, Hoàng tộc nhà Tống phải bỏ chạy ra bãi biển Nhai Sơn để tránh nạn, trên đường đi bị quân nhà Nguyên đuổi sát. Dương Quý Phi cùng các cung tần, mỹ nữ đã nhảy xuống biển tự tận để giữ chọn khí tiết. Sau khi tuẫn tiết, thi hài của Dương Quý Phi nhiều ngày trôi dạt trên biển đến vùng hạ lưu Đằng Giang thuộc vùng đất Phố Hiến, được nhân dân địa phương an táng và lập miếu thờ rất linh ứng.
Theo sử sách chép lại thì đền Mẫu được khởi dựng vào thời Trần (1279). Ban đầu, đây chỉ là một ngôi miếu nhỏ, dần dần do cầu đảo linh ứng, khách thập phương đến ngày càng đông. Đến triều Nguyễn năm Thành Thái thứ 8 (1896), đền được đại trùng tu và có quy mô lớn như hiện nay, bao gồm nhiều công trình nối tiếp nhau: Nghi môn, Thiêu hương 03 gian, Cung đệ Nhất 03 gian, cung đệ Nhị 05 gian, cung đệ Tam 05 gian, Hậu cung 03 gian, phủ Tây, Giải vũ, Lầu cô,... Hệ thống cột chịu lực và các cấu kiện kiến trúc của những hạng mục này đều được làm bằng gỗ. Các bộ vì được tạo tác kiểu chồng rường giá chiêng, hoặc giá chiêng biến thể, chạm khắc hoa văn tinh xảo với nhiều đề tài như hoa dây, hổ phù, đao mác, chữ Thọ, hoa văn kỷ hà, tứ linh, tứ quý,... mang đậm phong cách kiến trúc thời Nguyễn. Trong đó, đặc biệt thu hút sự chú ý của khách hành hương là tòa Hậu cung - nơi thờ và cũng là phần mộ yên nghỉ của Mẫu Dương Quý Phi.
Nhìn chung, mỗi hạng mục công trình tại đền Mẫu đều có những nét kiến trúc rất riêng, cổ kính, ẩn hiện trong tán cây đại thụ đã hơn bảy trăm năm tuổi. Tương truyền, xưa kia, trước cửa đền là cây bàng cổ thụ, chim chóc về đậu mang theo những hạt cây sanh, si, đa và bỏ lại trên thân bàng. Những hạt đó mọc thành cây và phát triển ngay trên thân, dần dần, rễ ba cây sanh, si, đa tìm xuống đất, bao trùm kín quanh thân cây bàng thành thế chân kiềng. Cây sanh, si, đa cổ thụ đã chứng kiến những thăng trầm của lịch sử, những đổi thay của làng Mậu Dương và Phố Hiến. Và theo như nhận định của hai nhà sử học Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng thì “Đây là cây đa cổ nhất vùng châu thổ Bắc Bộ”.
Đền Mẫu hiện còn lưu giữ nhiều cổ vật, đồ thờ quý rất có giá trị như: hai cỗ kiệu bát cống và thất cống tạo tác vào thời Hậu Lê, đường nét chạm khắc tinh xảo, với các đề tài độc đáo còn khá nguyên vẹn; bộ long sàng, long kỷ cũng có niên đại Hậu Lê; đôi lọ lục bình men rạn Bát Tràng thời Nguyễn; bức châm của tiến sỹ Chu Mạnh Trinh (1896),... Ngoài ra, đền còn bảo lưu được 15 đạo sắc phong của các triều đại từ Hậu Lê đến Nguyễn, sớm nhất mang niên hiệu Vĩnh Thịnh 7 (1711), muộn nhất là niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924).
Từ bao đời nay, đền là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa truyền thống của cư dân trong vùng cũng như du khách thập phương. Hằng năm, từ ngày 10 - 15/3 (âm lịch), hòa cùng với các lễ hội văn hóa dân gian Phố Hiến, đền Mẫu cũng mở hội với nhiều hoạt động như tế lễ, rước kiệu, múa lân, múa rồng, rước nước, chọi gà, đánh cờ tướng... Đây là một lễ hội lớn còn bảo lưu nhiều giá trị truyền thống tạo nên bản sắc độc đáo của văn hoá Hưng Yên trong vùng châu thổ Bắc Bộ.
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa và kiến trúc nghệ thuật, đền Mẫu đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích “Kiến trúc nghệ thuật” cấp quốc gia ngày 26/3/1990, và là một trong 16 di tích thuộc Di tích Quốc gia đặc biệt Khu Di tích Phố Hiến, thành phố Hưng Yên (2014).
Hơn 700 năm tồn tại và lưu giữ trong mình biết bao trầm tích văn hóa của thời kỳ Phố Hiến xưa và thành phố Hưng Yên ngày nay, đền Mẫu đã thực sự trở thành một di tích lịch sử văn hoá tiêu biểu, độc đáo, góp phần tạo đà cho du lịch văn hóa tâm linh của tỉnh nhà ngày càng khởi sắc.