Từ cầu Triều Dương men theo triền đê sông Luộc, hướng về xã Ngự Thiên (Hưng Yên), giữa màu xanh um tùm của những cây cổ thụ, một ngôi miếu nhỏ hiện ra bình yên trên gò đất cao. Miếu Cầu Công - nơi người dân hơn tám thế kỷ qua gìn giữ sự linh thiêng và lòng biết ơn đối với Minh Bảo phu nhân và Hoàng tử Nhật Chiêu - lặng lẽ soi bóng bên dòng sông, trở thành điểm tựa tâm linh của cả vùng.
Miếu Cầu Công, xã Ngự Thiên, tỉnh Hưng Yên
Theo Ngọc phả do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), Minh Bảo phu nhân - họ Lê, tên Bảo Nương - sinh tại xã Phương Quan, huyện Thanh Miện, đất Hải Dương xưa (nay thuộc thôn Chỉ Chung, xã Bắc Thanh Miện, thành phố Hải Phòng). Từ nhỏ bà đã nổi tiếng đoan trang, tinh thông cầm - kỳ - thi - họa, được Thái Tông Hoàng đế tuyển vào cung và sau trở thành đệ tứ cung phi của vua Lý Thánh Tông.
Tương truyền, trong một chuyến xa giá qua xã Cầu Tùng (nay là Cầu Công), vua Thánh Tông nhìn thấy một gò đất có thế tụ khí quý hiếm, “như sao chầu rồng phục”. Vua liền chọn nơi đây làm sinh phần cho phu nhân như lời khẳng định tình yêu, sự nâng niu đặc biệt mà nhà vua dành cho Bảo Nương.
Không lâu sau chuyến đi, bà hạ sinh Hoàng tử Nhật Chiêu - cậu bé khôi ngô, thông minh nên được vua Thánh Tông rất mực yêu quý. Nhưng định mệnh ngắn ngủi, Hoàng tử mắc bệnh đậu mùa rồi qua đời khi mới 12 tuổi. Quá đau thương, Minh Bảo phu nhân xin rời kinh thành về Cầu Tùng ở bên phần mộ con. Tại đây, bà bỏ tiền mua 53 mẫu ruộng cho dân cày cấy, lại dạy dân trồng đay, trồng cói, dệt chiếu. Nhớ công đức của bà, khi phu nhân qua đời, nhân dân tôn bà làm Thánh Mẫu thờ tại Miếu Cầu Công. Từ đó, Miếu Cầu Công trở thành trung tâm tín ngưỡng quan trọng của vùng quê ven sông Luộc.
Lăng mộ hoàng tử Nhật Chiêu bên bờ sông Luộc
Miếu Cầu Công có kiến trúc chữ Nhị gồm 05 gian Tiền tế và 03 gian Hậu cung. Tương truyền miếu được khởi dựng vào thời Lý, ban đầu chỉ là một cung nhỏ do vua Lý Thánh Tông xây dựng giao cho nhân dân sở tại trông coi sinh phần của Minh Bảo phu nhân. Sau khi Minh Bảo phu nhân mất, dân làng Cầu Công đã chuyển thành nơi thờ Minh Bảo phu nhân và Nhật Chiêu hoàng tử. Trải qua sự biến thiên của thời gian, ngôi miếu nhỏ đã được tu sửa nhiều lần tuy nhiên tòa Hậu cung của miếu vẫn bảo tồn được nguyên vẹn bộ khung kiến trúc bằng gỗ mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn với những nét chạm mềm mại, tinh xảo và uyển chuyển của những người nghệ nhân xưa trên ván mê, vì nách, cửa bức bàn … tạo nên vẻ đẹp thâm trầm, cổ kính cho ngôi miếu cổ.
Tượng thờ Minh Bảo phu nhân và bài vị Nhật Chiêu hoàng tử và các vị thành hoàng miếu Cầu Công.
Lễ hội miếu Cầu Công được tổ chức vào ngày 10 tháng 8 âm lịch hàng năm nhằm ngày giỗ hoàng tử Nhật Chiêu. Từ xa xưa người dân Cầu Công và Phương Quan (quê hương của Minh Bảo phu nhân) đã có tục giao chạ với nhau trong mỗi kì lễ hội thể hiện mối quan hệ gắn bó thân thiết của hai làng. Xưa kia dù đường xá đi lại còn gặp nhiều khó khăn nhưng vào mỗi dịp lễ hội nhân dân hai làng đều cử đại biểu sang để tham dự tế lễ. Đối với dân Cầu Công và Phương Quan, giao chạ không chỉ là nghi lễ, mà là sợi dây vô hình gắn kết bền chặt hai vùng quê, lưu giữ mạch chảy văn hóa lâu đời của vùng châu thổ sông Hồng. Nó nhắc nhở mỗi người: dù thời gian có trôi đi, dù thế giới có đổi thay, những giá trị truyền thống về lòng biết ơn, sự kết nối cộng đồng và sự chung tay dựng xây quê hương vẫn luôn trường tồn. Tục lệ đó vẫn được duy trì cho đến ngày nay đã gần một nghìn năm. Đó là một nét văn hóa đặc biệt mà hiếm nơi nào còn gìn giữ được.
Không chỉ mang giá trị tín ngưỡng, Miếu Cầu Công còn là địa chỉ đỏ trong kháng chiến. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, miếu là nơi hội họp bí mật của các tổ chức đoàn thể trong xã, nơi tản cư của nhân dân Hưng Yên - Hải Dương trong những năm 1946 - 1947, là điểm dừng chân của Trung đoàn 64, Sư đoàn 320… Những câu chuyện về thời kỳ khói lửa ấy vẫn được các bậc cao niên kể lại như một phần tự hào của quê hương Cầu Công.
Hiện trong Miếu Cầu Công còn lưu giữ được 01 quyển Ngọc phả về Đệ tứ cung phi Minh Bảo phu nhân đời vua Lý Thánh Tông; 01 quyển văn tế và 07 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn trải dài từ đời vua Tự Đức tới đời vua Khải Định phong tặng cho các vị thần được thờ tại Miếu và nhiều hiện vật bằng gỗ và sứ thời Nguyễn có giá trị cao về mặt nghệ thuật như: tượng thờ, ngai thờ, bài vị, câu đối, bát hương…. Đây không chỉ là những di vật có giá trị về mặt lịch sử mà còn là nguồn tài liệu quý có giá trị cao góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử, mỹ thuật, tín ngưỡng của các triều đại phong kiến Việt Nam.
Với những giá trị lịch sử tiêu biểu trên, năm 2020, Miếu Cầu Công được UBND tỉnh xếp hạng Di tích Lịch sử -Văn hóa cấp tỉnh theo số quyết định 3201/QĐUB ngày 19/11/2020, khẳng định giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hóa và tâm linh.
Miếu Cầu Công, bên dòng sông Luộc yên bình, không chỉ là nơi tưởng nhớ Minh Bảo phu nhân và Hoàng tử Nhật Chiêu, mà còn là nhịp cầu nối quá khứ - hiện tại, lưu giữ văn hóa, lịch sử và tâm linh của vùng đất Hưng Yên.
Khánh Hòa