Chùa Đại Bi, thôn An Lạc, xã Bắc Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên là danh lam cổ tích, được Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình cũ xếp hạng di tích cấp Tỉnh, năm 2003. Chùa hiện có nhiều di vật quý, trong đó có cụm bia đá. Trong khi phần lớn bia đá ở các địa phương trong tỉnh bị hủy hoại, thì bia đá ở chùa này được bảo tồn khá tốt. Cả thẩy có 8 bia đá, trong đó có 6 bia được dựng vào thế kỷ XVI, 2 bia dựng vào thế kỷ XVII. Trong khi các nguồn tư liệu thư tịch về ngôi chùa này, cũng như địa phương này đều không còn, thì tư liệu văn bia này có thể xem là những trang “sử đá” quý giá.
Bài viết giới thiệu khái quát về những bia đá này và giá trị thông tin tư liệu văn bia phản ánh về lịch sử và sự kiện liên quan đến ngôi chùa trong lịch sử; cũng như vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị kho tàng di sản bi kí này.
Chùa Đại Bi hiện có 8 bia đá được thu thập dựng trước sân chùa, gồm:
1. Tôn tạo Đại Bi tự/ 大悲寺碑記. Bia 2 mặt, khổ 1,15 x 0,75m, toàn văn chữ Hán, khắc 35 cột, mỗi cột khoảng 35 chữ. Văn bia khắc năm Sùng Khang 9 (1575) do Tiến sĩ Cập Đệ khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo (1557) Binh bộ Triều liệt đại phu trong phủ Ứng Vương, quê xã Đoan Lâm, Bình Giang, Hải Dương là Đỗ Uông soạn. Môn đệ là Bảng nhãn Lều Quang Bật viết chữ để khắc bia. Nội dung: Ghi lại lịch sử ngôi chùa có từ thời Trần và quá trình trùng tu chùa.
2. Đại tự đại bi/大悲寺碑. Bia hai mặt, khổ 1,00m x 0,60m, dựng năm Hưng Trị 1 (1588). Toàn văn Hán khắc làm 16 cột từ phải qua trái, mỗi cột trung bình 24 chữ. Văn bia do Nguyễn Sơn ở xã Tây Am, Vĩnh Bảo soạn, khắc. Nội dung: Ghi việc tạo mới 16 Pho trượng, tô lại 6 pho tượng cũ. Sơn son thiếp vàng toàn bộ tượng chùa.
3. Tân tạo các bi ký/新造閣碑銘記. Bia hai mặt, khổ 1,35m x 0,75m, khắc làm 24 cột dọc từ phải qua trái, mỗi cột trung bình 30 chữ. Bia tạo năm Hưng Trị thứ 2 (1589). Văn bia do Giám sinh Quốc tử giám Minh Luân đường Nguyễn Duy Thuân soạn. Nội dung: ghi lịch sử chùa và việc dựng gác chuông chùa.
4. Tân tạo thiết kình đăng/ 新造鐵檠燈. Bia hai mặt, khổ 0,90m x 0,60m, khắc làm 24 cột dọc từ phải qua trái, mỗi cột trung bình 25 chữ. Bia tạo năm Hồng Ninh thứ 2 (1592). Văn bia do Giám sinh Quốc tử giám Minh Luân đường Nguyễn Duy Thuân soạn. Nội dung ghi việc làm cột đền bằng sắt để thay thế cột đền bằng gỗ đã hư hại.
5. Tạo Đại Bi tự hành lang tả hữu lưỡng vũ bi ký/造大悲寺行廊兩廡碑記 造大悲寺行廊兩廡碑記. Bia hai mặt, khổ 1,10m x 0,70m, khắc làm 22 cột dọc từ phải qua trái, mỗi cột trung bình 34 chữ. Bia tạo năm Quang Hưng thứ 17 (1594) đời vua Lê Thế Tông. Văn bia do Giám sinh Quốc tử giám Minh Luân đường Nguyễn Duy Thuân soạn. Nội dung: ghi lịch việc dựng hai dãy hành lang và hai tòa giải vũ chùa.
6. San kinh bi minh ký/刊經碑銘記. Bia hai mặt, khổ 1,10m x 0,81m, khắc làm 23 cột dọc từ phải qua trái, mỗi cột trung bình 29 chữ. Bia tạo năm Quang Hưng thứ 17 (1594) đời vua Lê Thế Tông. Văn bia do Giám sinh Quốc tử giám Minh Luân đường Nguyễn Duy Thuân soạn. Nội dung: ghi việc khắc, in kinh Phật và lý do chùa này được khắc in kinh Phật vì có Phật tức Trần Nhân Tông.
7. Đại Bi tự chú đồng Phật bi/大悲寺鑄銅佛像碑 do Quốc tử giám Giám sinh Trung xá sinh Trúng thức khoa Ất Mão là Tô Vũ Lan soạn năm Vĩnh Tộ thứ nhất (1621). Nội dung ghi việc đúc tượng bằng đồng.
8. Hậu Phật bi ký/後佛碑記, khắc năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời Lê Huyền Tông. Bia 2 mặt, kích thước 1 x 0,50m, 24 hàng chữ, trong mỗi hàng có 30 chữ. Nội dung: Mặt tiền là bức phù điêu tượng hậu Phật bà Nguyễn Thị Huy. Bà đã bàn bạc cùng con cháu phát tâm cúng tiến 45 quan cho chùa làng. Làng dùng tiền đó mua được 4 thửa ruộng gồm 2 mẫu để làm ruộng hương hỏa cho nội tự. Văn bia còn nhắc đến quy mô chùa: đầu Sùng Khang làm gác chuông, đào giếng bắc cầu, mở mang chùa miếu so Trần gấp bội phần.
Như vậy là trong số 8 văn bia này, thì có 6 văn bia thế kỷ XVI, trong đó 4 bia mang niên hiệu nhà Mạc, 2 văn bia mang niên hiệu nhà Lê và 2 văn bia khác mang niên hiệu thời Lê Trịnh đầu thế kỷ XVII. Ở thế kỷ XVI, vùng đất này dưới thời nhà Mạc theo nhà Mạc, nên văn bia khắc trong thời gian nhà Mạc trị vì, đều ghi theo niên hiệu nhà Mạc. Sau khi nhà Mạc bị nhà Lê thay thế năm 1592, thì những văn bia dựng sau năm này mà cụ thể là năm 1594 thì ghi theo niên hiệu nhà Lê (Quang Hưng thứ 17: 1594) mà không ghi niên hiệu nhà Mạc. Đó cũng là thái độ chính trị rõ ràng với các vương triều chấp chính.
Văn bia chùa Đại Bi, nhất là vào thời Mạc đều được các bậc Nho học soạn, trong đó tiêu biểu là Bảng nhãn Đỗ Uông và Hiệu sinh bản phủ Nguyễn Duy Thuần. Trong lần trùng tu lần đầu dưới thời Mạc, địa phương đã mời được Đỗ Uông soạn văn bia ghi lại việc trùng tu chùa này vào năm Sùng Khang thứ 9 (1576).
Tài liệu khoa bảng cho biết, Đỗ Uông (1523 - 1600), người xã Đoàn Lâm (tục gọi là xã Miếu Thông), huyện Gia Phúc, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay là thôn Đoàn Lâm, xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ Đệ nhất giáp đồng Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn), khoa Bính Thìn niên hiệu Quang Bảo thứ 3 (1556) đời vua Mạc Phúc Nguyên. Ông làm quan nhà Mạc, năm Giáp Tuất 1574, giữ chức Hữu thị lang bộ Binh, kiêm Vương phó là thầy của các bậc vương công. Sau đổi làm Tả thị lang Bộ Công. Trên văn bia năm Sùng Khang thứ 9 (1576), chức tước của ông được ghi đầy đủ là Đỗ Tiến sĩ cập đệ khoa Bính Thìn (1556), chức Binh bộ Hữu thị lang, kiêm Ngũ phủ Triều liệt đại phu, Phúc Tùng viện; có nghĩa là, năm 1576, ông mới giữ chức Binh Bộ Hữu Thị lang[1].
Qua tư liệu văn bia thời Mạc, thì văn bia chùa Đại Bi là văn bia đầu tiên do Đỗ Uông soạn, cũng là văn bia sớm nhất của chùa này. Sau khi soạn văn bia Đại Bi này, Đỗ Uông còn soạn 5 văn bia khác vào năm Diên Thành sơ niên (1578), Diên Thành thứ 2 (1579), Diên Thành thứ 3 (1580), Diên Thành thứ 6 (1583) và Đoan Thái thứ 3 (1587). Trên văn bia năm 1587, chức tước của ông được ghi như sau “Đỗ Uông, chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Lại bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, Phúc Quận công, Thượng trụ quốc Hồng phúc tùng viện”[2]. Có nghĩa là, đến cuối thời Mạc, Đỗ Uông giữ chức Lại Bộ Thượng thư, tước Phúc Quận công, một chức quan đầu triều.
Sau khi nhà Mạc bị nhà nhà Lê lấy lại quyền thống trị vào cuối năm 1592, Đỗ Uông cùng một nhóm quan lại cũ của nhà Mạc ra phò tá nhà Hậu Lê, được giữ nguyên chức cũ. Đến năm Quang Hưng thứ 19 (1596) đời Lê Thế Tông, ông là Thượng thư bộ Hộ, tước phong Thông Quận công, được cử cùng Ngự sử đài đô ngự sử Nguyễn Văn Giai làm quan hầu mệnh đến cửa Trấn Nam Giao trước, trao đổi điệp văn thư từ với viên Tả giang binh tuần đạo nhà Minh là Trần Đôn Lâm, hẹn đến cửa quan hội khám xem có thực có là con cháu nhà Lê hay không. Từ đây, ông được triều đình Lê trung hưng trọng dụng, đảm nhận công việc bang giao với nhà Minh. Năm 1598, ông được phong làm Thiếu bảo. Ngày 6 tháng 12 âm lịch, Tiết chế Trịnh Tùng sai quan hầu mệnh Đỗ Uông chuẩn bị nghi chú, lễ vật đến cửa Trấn Nam Giao đón tiếp Bắc sứ của nhà Minh. Đến năm Canh Tý 1600, đời vua Lê Kính Tông, trong nước có biến, vua chạy về Tây đô (Thanh Hóa), ông can ngăn xin rước vua trở về, bị loạn quân giết chết.
Một vấn đề đặt ra ở đây là, tại sao địa phương lại mời được vị đại khoa và quan chức cao trong triều là Đỗ Uông vốn không có quan hệ gì với làng xã này về soạn văn bia chùa làng. Thực tế, khi soạn văn bia này, ông giữ chức Binh bộ Hữu thị lang, kiêm Ngũ phủ Triều liệt đại phu, nghĩa là làm Phó tướng bộ Binh, kiêm quản quân Ngũ phủ. Văn bia này cũng ghi việc tham gia trùng tu chùa, có các vị quan chức quân sự thuộc phủ Tây Quân, như “Tây quân phủ Ưng Dương vệ, hiệu Lôi Tiền sở Võ úy Đô Mỹ bá Nguyễn Duy Hòa. Triều Đông vệ Bổng Nhật ty Phấn Lâm bá Nguyễn Đáp,...”. Có nghĩa Nguyễn Huy Hòa tước Đô Mỹ bá, chức Võ úy ở sở Lôi Tiền thuộc vệ Ưng Dương, Tây Quân phủ và Phấn Lâm bá Nguyễn Đáp ở vệ Triều Đông. Thực tế, phủ Tân Hưng vốn thuộc lộ Sơn Nam thời Lê, nhưng sang nhà Mạc thì đổi thuộc đạo Hải Dương. Do đó, Đỗ Uông cai quản quân đội địa phương vùng Hải Dương, quê của ông, kiêm quản quân đội các địa phương thuộc Hải Phòng, Quảng Ninh và Thái Bình ngày nay. Mặt khác, người hưng công trùng tu chùa là quan võ dưới trướng của Đỗ Uông, như Nguyễn Duy Hòa có thể là người địa phương, nên đã mời được vị võ quan kiêm quản quân đội địa phương này về soạn văn bia.
Ngoài Đỗ Uông soạn văn bia thế kỷ XVI ra, còn có Giám sinh Quốc tử giám Minh Luân đường Nguyễn Duy Thuân soạn. Ông có lẽ là người có học ở địa phương nên được mời soạn 3 văn bia sau văn bia do Đỗ Uông soạn.
Người tham gia hưng công và công đức trùng tu, xây dựng chùa là quan chức người địa phương và dân làng, cùng thập phương tín thí. Có lẽ chùa này là danh lam cổ tích rất linh ứng, nên liên tục được trùng tu, mở mang quy mô chùa, đúc tượng Phật, cúng tiền mua ruộng làm của Tam bảo. Điều đó được tư liệu văn bia phản ánh khá cụ thể.
Văn bia khắc năm 1576 cho biết, “chùa này có tên là Đại Bi, là danh lam bậc nhất đất Tân Hưng ta vậy. Trước đây chùa vớt được một quả chuông lớn nổi ở sông, có khắc chữ là chuông do Hoàng Thái hậu thời vua Trần Anh Tông (1290-1292) đúc. Chuông đánh lên âm vang xa rộng, nay hiện còn”. Cũng trong lần đào móng làm lại chùa này, phát hiện bia đá thời Trần bị vùi lấp. Một văn bia khác, nói rõ hơn, chùa này có từ thời Trần, nay chỉ còn dấu tích,...
Có nghĩa là chùa này có từ thời Trần do Hoàng Thái hậu thời vua Trần Anh Tông, tức Hoàng hậu Trần Nhân Tông tạo dựng.
Bộ quốc sử triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết khá cụ thể về bà Hoáng Thái hậu này. Năm 1274, Trần Khâm, con cả của vua Trần Thánh Tông (1258-1278) khi 16 tuổi, được vua cha sách phong làm Hoàng thái tử. Trần Thánh Tông cũng lập trưởng nữ của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là Quyên Thanh công chúa, rồi gả cho Thái tử Trần Khâm. Năm Mậu Dần 1278, Thái tử lên ngôi vua lấy niên hiệu là Nhân Tông (1278-1293), Quyên Thanh công chúa được phong làm Bảo Thánh hoàng hậu. Đến năm 1293, vua Nhân Tông nhường ngôi lại cho con là Thái tử Trần Thuyên, tức vua Trần Anh Tông (1293-1314), rồi lên làm Thái thượng hoàng, Hoàng hậu được suy tôn làm Bảo Thánh Hoàng Thái hậu. Ngày 13 tháng 9 năm ấy, Thái hậu băng ở Lỗ Giang, phủ Long Hưng[3].
Như vậy, văn bia nhắc đến bà Hoàng Thái hậu dựng chùa, đúc chuông, chính là Bảo Thánh Hoàng Thái hậu, Hoàng hậu của vua Trần Nhân tông và là thân mẫu của vua Trần Anh Tông. Bà là con gái Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn và Thiên Thành công chúa. Bà cuối đời từng sống và mất ở hành cung Lỗ Giang. Có lẽ do bà sống ở Long Hưng, nên đã cho xây dựng chùa Đại Bi để tu hành. Hành cung Lỗ Giang được sử sách ghi chép chính là Di tích khảo cổ học Hành cung Lỗ Giang mới được phát hiện năm 2014 tại khu vực đền Thái Lăng, xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà, cùng ven tuyến đường sông nói từ phủ Thiên Trường đến trung tâm Long Hưng (nay thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà trong tỉnh). Tuy nhiên, hành cung Lỗ Giang không biết bị phá hủy khi nào, nhưng không để lại vết tích gì trên mặt đất, duy có ngôi đền Thái Lăng được xây dựng về sau. Kết quả khai quật cho biết, hành cung Lỗ Giang là một hành cung lớn, với một hệ thống công trình kiến trúc đặc biệt, đó là hệ thống móng trụ kép hình chữ nhật có kích thước lớn gấp ba móng trụ vuông thông thường, cùng nhiều vật liệu kiến trúc, trang trí, như những viên ngói úp đầu bờ dải trang trí mặt sư tử, trán khắc chữ Vương. Ngoài ra, còn rất nhiều di vật được trang trí đề tài rồng, phượng.
Rõ ràng là ngôi chùa Đại Bi này có từ thời Trần, hư hại và hủy hoại dưới thời thuộc Minh, đến thời Mạc được khôi phục, tôn tạo lại. Ngôi chùa vốn dĩ do bà Hoàng Thái hậu thời Trần dựng, thuộc chùa của quý tộc nhà Trần, thì sang nhà Mạc chùa này chuyển sang sở hữu của làng xã, do làng xã duy tu và phụng Phật.
Đến thời Mạc, chùa có quy mô khá lớn, có thượng điện, gác chuông, hành lang, đặc biệt là Phật điện khá nhiều tượng. Văn bia khắc năm Đoan Thái thứ 2 (1586) cho biết, chùa hưng công tạo mới tượng Phật 16 pho và trùng tu tượng cũ 6 pho. Sang năm Đinh Hợi, ngày 15 tháng Giáp Trung (tháng 2 âm lịch) đã sơn son thếp vàng, ánh hào quang tỏa chiếu. Công việc hoàn thành, ngày 15 mở hội mừng công hoàn tất. Sau đó chùa liên tục được tu bổ thêm, như dựng đèn sắt bệ đá, san khắc kinh Phật, làm gác chuông, đào giếng bắc cầu, quy mô lớn hơn nhiều so với quy mô chùa này vào thời Trần. Rất tiếc là hiện nay chùa trải qua nhiều nhiều hư hại, tư bổ, nên mất mát nhiều kiến trúc cổ, kể cả những ván khắc kinh Phật khi đó. Trước ngày việc san khắc kinh Phật hết sức khó khăn, chỉ là những ngôi chùa lớn, như là chùa tổ thì mới tổ chức san khắc, tàng trữ kinh Phật và truyền giảng đạo pháp. Rõ ràng là chùa Đại Bi vào thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII là ngôi chùa lớn, là trung tâm của hoạt động Phật giáo trong vùng. Chùa có bia Hậu Phật mà mặt trước chạm chân dung của vị Hậu Phật này vào năm Cảnh Trị thứ 3 (1665) đời Lê Huyền Tông. Đó là bà Nguyễn Thị Huy đã phát tâm cúng tiến 45 quan cho chùa làng mua được 2 mẫu để làm ruộng hương hỏa cho nội tự. Bức phù điều đá này hiện còn ở chùa, nét chạm khắc khá tinh xảo. Cũng có thể chùa này vốn thời Trần gắn với Hoàng Thái hậu, phu nhân của Trần Nhân Tông, sư tổ Thiền phái Trúc Lâm, nên chùa này thờ Trần cũng là hệ thống chùa thuộc Thiền phái Trúc Lâm. Truyền thuyết cho biết, chùa này vào thời Trần từng được sư tổ Huyền Quang đến giảng đạo. Chính vì thế mà chùa làng của sư tổ Huyền Quang ở Hải Dương cũng có tên là Đại Bi như tên chùa Đại Bi ở Đông Hưng, Thái Bình này.
Thay lời kết:
Chùa Đại Bi thôn An Lạc, xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình vốn là ngôi chùa được xây dựng từ thời Trần gắn với Hoàng tộc nhà Trần và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đến thời Mạc, chùa trở thành chùa làng được dân làng trùng tu tôn tạo, mở rộng quy mô, duy trì trong các thời kỳ sau đó và đến ngày nay. Tiếc rằng, tư liệu ghi chép về ngôi chùa và vùng đất này rất hiếm hoi, những văn bia này cũng mờ mòn nhiều. Đặc biệt cụm bia đá này được dồn lại dựng trước sân chùa giữa mưa nắng, nguy cơ mờ mòn, hư hại rất lớn. Do vậy, cần thiết có giải quy hoạch và bảo vệ cụm bia đá này, tổ chức sao chép, in dập văn bia, dịch chú, khai thác giá trị tư liệu văn bia để làm tài liệu tuyên truyền giáo dục con em địa phương, cũng như bảo vệ và phát huy tốt nhất giá trị di sản văn hóa địa phương.
Tài liệu tham khảo:
Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb. Văn học, 2006.
Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Mạc: Tư liệu và khảo cứu, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nộ, 2021.
Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, 1998, tập 2.
Kỷ yếu hội thảo Hành cung Lỗ Giang, Hưng Hà, Thái Bình trong lịch sử nhà Trần, Thái Bình 2019.
Tài liệu Địa phương chí Thái Bình, Tập 6, Trung tâm Unesco thông tin tư liệu lịch sử và văn hóa Việt Nam, 2006.
[1] Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb. Văn học, 2006, tr. 379.
[2] Đinh Khắc Thuân, Văn bia thời Mạc: Tư liệu và khảo cứu, Nxb. Đại học Quốc Gia Hà Nộ, 2021, tr.54.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư, Bản dịch, Nxb Khoa học xã hội, 1998, tập 2, tr. 69.
Hiện trạng bia chùa Đại Bi
Tượng Hậu Phật chùa Đại Bi
Tuyết Nhung