Giữa lòng đồng bằng Bắc Bộ, nơi dòng sông Luộc hiền hòa uốn lượn quanh làng mạc trù phú, có một miền đất lặng lẽ mà rực sáng trong lịch sử dân tộc – đó là vùng đất thuộc lộ Long Hưng xưa, và thuộc xã Long Hưng, tỉnh Hưng Yên ngày nay, nơi đặt Lăng mộ và Đền thờ các vua Trần, được xem là đất phát tích của vương triều Trần – triều đại đã làm rạng danh nước Việt bằng ba lần đại thắng quân Nguyên Mông và gần hai thế kỷ thịnh trị huy hoàng. Từ ngôi làng cổ bên sông ấy, dòng họ Trần – vốn gốc người Mân sang định cư – đã khởi nghiệp bằng nghề chài lưới, rồi lập ấp, lập làng, mở cơ nghiệp, để rồi từ mảnh đất Tinh Cương – Thái Đường nhỏ bé, ánh sáng Đông A tỏa khắp non sông.
Toàn cánh khu lăng mộ và đền thờ các vua Trần nhìn từ trên cao
Theo sử liệu, cụ tổ Trần Hấp là người đầu tiên đưa mộ tổ Trần Kinh về táng tại vùng đất này. Thế đất nơi đây có hình “Long bàn hổ cứ”, trước mặt là sông Thái Sư mềm mại như dải lụa, sau lưng gò đồi thấp mang hình “Thất tinh tụ khí”. Dân gian từ lâu xem đây là “Địa linh sinh vương”, mạch đất hội tụ linh khí trời Nam. Chính tại nơi này, dòng họ Trần hưng thịnh, sinh ra những vị vua anh minh, mở đầu một triều đại anh hùng
Nếu như đền Trần ở Nam Định là nơi các vua Trần ngự giá về nghỉ ngơi, là phủ Thiên Trường tượng trưng cho thời kỳ trị vì và chính sự, nếu di tích ở Quảng Ninh gắn với dấu ấn Trần Nhân Tông thuyết pháp tại Yên Tử, là nơi thiền và giải thoát, thì đền Trần ở Thái Bình lại là gốc rễ của mọi nguồn linh khí – nơi một triều đại vĩ đại được sinh ra. Nói cách khác, Nam Định là nơi triều Trần trị quốc, Quảng Ninh là nơi triều Trần khai đạo, còn Thái Bình mới là nơi triều Trần phát nghiệp – khởi nguyên của cả đức và nghiệp Hào khí Đông A.
Chính vì thế, người xưa vẫn nói: Về Nam Định để tưởng vua, ra Thái Bình để bái Tổ. Đó là sự khác biết không chỉ về địa lý, mà còn về tầng sâu tâm linh và nguồn mạch lịch sử.
Toàn cảnh đền Vua
Quần thể di tích đền Trần Thái Bình gồm nhiều hạng mục linh thiêng, hài hòa theo thế phong thủy cổ truyền. Ở trung tâm là đền Vua, nơi thờ các bậc vương quân đầu triều – những người khai mở, gây dựng cho cơ nghiệp nhà Trần. Gian giữa thờ Trần Thái Tông ( Trần Cảnh, 1218 – 1277) – vị vua khai sáng triều đại, người kết hợp đạo trị nước với đạo tu tâm, vừa là nhà chính trị kiệt xuất, vừa là thiền giả uyên thâm, để lại tác phẩm: “ Khóa Hư Lục” – viên ngọc triết lý của dân tộc. Bên tả thờ Trần Thánh Tông (1240-1291) – vị vua nhân nghĩa, khoan dung và trọng hiền tài, vun bồi sức dân, xây dựng cơ đồ vững chắc. Bên hữu thờ Trần Nhân Tông (1258 – 1308) – vị anh hùng dân tộc, người lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vĩ đại, sau tu hành ở Yên Tử sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, đưa tinh thần Phật học thấm sâu vào đời sống người dân Việt. Tại tòa hậu cung, gian chính giữa đặt một ban thờ lớn, trên bàn thờ đặt một cỗ khám 05 gian, trong khám đặt ngai thờ các cụ Trần Hấp, Trần Kinh, Trần Lý. Phía ngoài đặt ngai, tượng và bát hương thờ thượng hoàng Trần Thừa, thân phụ của Trần Thái Tông – người đặt nền chính trị đầu tiên cho cơ nghiệp nhà Trần, dung hòa giữa đạo đức và chính trị, giữa nhân tâm và thiên mệnh. Phía bên đông Hậu cung đặt một bàn thờ, trên bàn thờ có khám, tượng và bát hương thờ Trần Thủ Độ. Phía bên tây Hậu cung cũng đặt một bàn thờ, trên bàn thờ có khám, tượng và bát hương thờ Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung.
Toàn cảnh Đền Thánh
Bên trái khu đền Vua là đền Thánh, nơi thờ người anh hùng dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn – vị trướng trụ cột trong tôn thất hoàng gia Đại Việt triều Trần, người đã có công lớn trong việc bảo vệ đất nước khỏi quân xâm lược phương Bắc và xây dựng triều đại hưng thịnh. Ngoài ra, đền còn là nơi thờ Quốc mẫu phu nhân Thiên Thành công chúa, tứ vị vương tử, Điện súy thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão – vị tướng kiệt xuất, và hai con gái của Hưng Đạo Đại Vương, những người đã có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn trật tự xã hội và phát triển văn hóa, giáo dục triều Trần..
Còn phía bên phải là Đền Mẫu, nơi thờ Trần Thị Dung cùng các hoàng hậu, công chúa đầu triều Trần. Bà nguyên là hoàng hậu của Lý Huệ Tông, một nhân vật có công lớn trong việc chuyển giao hai triều đại, đặt nền móng cho sự ổn định chính trị và xã hội của nhà Trần. Trần Thị Dung được tôn xưng là bậc mẫu nghi thiên hạ, hiện thân cho đức hy sinh, lòng bao dung và trí tuệ tinh hoa của người phụ nữ Việt, đồng thời là biểu tượng của vai trò quan trọng và cao quý của phụ nữ trong lịch sử dân tộc. Ba ngôi đền Vua – Thánh – Mẫu sắp xếp theo trục “ Nhân – Thần – Mẫu”, cấu trúc ấy tạo nên một chỉnh thể tâm linh hoàn mỹ, nơi con người tìm được sự cân bằng giữa trung hiếu, nghĩa khí và tình thương.
Phía trước mặt khu đền là ba ngôi một lớn được dân gian gọi là phần Đa, phần Trung và phần Bụt, tương truyền là Chiêu Lăng, Dụ Lăng và Đức Lăng, nơi yên nghỉ của ba vị vua đầu triều. Thế đất “ Tiền Tam thai, Hậu Thất tinh:” được cho là biểu tượng cho thiên mệnh tụ khí - nơi linh hồn của các bậc Thánh đế vẫn soi sáng cho muôn dân nước Việt. Trong không gian ấy, tiếng chuông chùa xa vọng hòa cùng tiếng gió đồng, khiến bước chân người hành hương như nhẹ lại, lòng người tự nhiên tĩnh tại giữa mạch nguồn của quá khứ.
Toàn cảnh Đền Mẫu
Mỗi năm, từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Giêng, lễ hội Đền Trần được tổ chức trọng thể. Nghi lễ rước nước sông Hồng, tế Tổ họ Trần diễn ra trang nghiêm. Phần hội tưng bừng với những trò chơi dân gian có từ ngàn xưa như thi cỗ cá, vật cầu, đấu gậy, thả diều…Tất cả tái hiện tinh thần thượng võ và đời sống phong phú của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Năm 2014, Lễ hội được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định giá trị kép - vật thể và tinh thần - của vùng đất này.
Nhưng trên hết, đền Trần tại xã Long Hưng không chỉ là một di tích cổ. Đó là nguồn tâm linh, là trường học lớn của đạo đức và trí tuệ. Người dân tin rằng, về thăm và công đức nơi đây không chỉ là sự tri ân với tiền nhân, mà còn là cách bồi dưỡng đức - trí - nghiệp cho chính mình. Bởi mảnh đất này từng sinh ra những con người lấy trí làm nghiệp, lấy nhân làm gốc, lấy lòng dân làm sức mạnh. Hào khí Đông A - ý chí quyết chiến quyết thắng, tinh thần đoàn kết "vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước góp sức - vẫn âm thầm lan tỏa từ Long Hưng xưa, hun đúc lòng người hôm nay trong đời sống hiện tại.
Thực tế, vùng đất phát tích họ Trần từng có thời bị quên lãng, những năm dài chiến tranh, đền miếu xuống cấp, lễ hội thưa vắng. Nhưng rồi, bằng nỗ lực của các cấp chính quyền và lòng dân, khu di tích đã được xếp hạng Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2408/QĐ –TTg ngày 31 tháng 12 năm 2014, đồng thời được đầu tư, tôn tạo, quy hoạch tổng thể lại. Giờ đây, công cuộc phục hồi và quảng bá di tích không chỉ là trách nhiệm của một địa phương, mà là sứ mệnh chung của những người yêu di sản. Mỗi người đến thăm, mỗi nén hương dâng, mỗi đồng công đức đều là sự góp phần hồi sinh cho vùng đất tổ - để Long Hưng lại rạng rỡ giữa đồng bằng Bắc Bộ, để hào khí Đông A không chỉ là quá khứ mà trở thành động lực cho hiện tại và tương lai.
Khi hoàng hôn buông xuống trên mái ngói rêu cổ phong, tiếng chuông ngân xa, hương trầm quyện gió, người ta chợt hiểu: nơi đây không chỉ là di tích, mà là một mạch sống tinh thần của dân tộc. Ai đã từng cúi đầu trước các bài vị vua Trần, ai đã từng bước đi giữa những hàng cây cổ thụ nơi đất tổ, hẳn sẽ mang trong lòng cảm giá khó tả - vừa thiêng liêng, vừa tự hào, vừa thanh thản. Bởi đứng giữa Long Hưng, ta không chỉ nhìn về quá khứ, mà còn soi thấy tương lai - nơi sức mạnh trí tuệ và lòng nhân ái của tổ tiên vẫn đang âm thầm nâng đỡ con cháu hôm nay.
Một triều đại có thể khép lại, nhưng linh khí Đông A vẫn còn lặng lẽ tỏa lan, sông Luộc vẫn bồi phù sa, đất Long Hưng vẫn sinh người tài đức. Người về lễ Tổ, ắt lòng an - chí sáng - nghiệp bền!
Đào Thị Bích Ngọc